Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất – Ngữ văn lớp 11

Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất – Ngữ văn lớp 11 tại thptnguyenchithanhag.edu.vn

Đề bài: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.

“Lai Tân” là bài thơ thứ 97 trong số 133 bài thơ “Nhật ký Người Trưng” của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đây, có tựa đề “Đào Liễu Châu”, tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: “Ngày mồng chín vừa tới Liễu Châu – Nhìn lại trăm mối ác mộng”. ngày..” .. Từ nhà ngục Thiên Giang, Bác Hồ viết bài “Ngục Thiên Giang” ngày 1-12-1942 (bài 94), sau đó được xe lửa đưa về Lai Tân, ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: “Nhưng đi bộ cũng chán!”. Qua đó mới biết bài thơ “Lai Tân” được Hồ Chí Minh viết vào tuần đầu tiên của tháng 12 năm 1942. Vì là “Nhật ký…” nên phải nghiên cứu tỉ mỉ như vậy!

“Lai Tân” là bài thơ nhằm tố cáo thực trạng xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ hay chỉ là tiếng cười mỉa mai của nhà thơ về những “con người” trong giới sĩ phu ở Lai Tân. thấy nhà thơ? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.

Sau đây là bản dịch thơ của Nam Trân:

“Người đứng đầu nhà tù cờ bạc,

Chiến đấu với mọi người, tù trưởng kiếm ăn xung quanh,

Trưởng huyện làm việc,

Đất trời Lai Tân vẫn bình yên.”

Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ đầu nói về tên Trưởng – một viên quản ngục. Hắn không hung dữ, không què quặt như những tên chúa ngục khác mà chỉ “đánh bạc qua ngày” (trên trời rơi xuống). Hắn biến nhà tù thành sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là nơi cải tạo tù nhân, không phải là nơi thực thi luật pháp và công lý. Tên cầm đầu và tù nhân đều có cùng một hoàn cảnh: đều là những con bạc, cùng một băng nhóm đỏ đen, giết nhau, cùng một đam mê. Câu Hán Nôm có nghĩa: “Trưởng ngục ngày nào cũng đánh bạc” được dịch ra là “Giám đốc ngục chuyên đánh bạc” kể cũng hay, ở đây bật cười trước sự nghịch lý của sự vật và con người. , của hiện tượng mà nhà thơ nói tới, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười sảng khoái, thâm thúy, giàu trí tuệ.

Vì đã trải qua “hơn trăm ngày ác mộng”, bị đày đi hàng chục nhà tù ở tỉnh Quảng Tây, nên ông nhìn thấy nhiều nghịch lý, nghịch cảnh của bức tranh lao tù, “sự đời trớ trêu”:

“Đánh bạc ngoài sân truy bắt tội nhân,

Trong tù cờ bạc là công khai,

Trong tù, con bạc ăn năn mãi:

Tại sao bạn không đến nơi này đầu tiên!?”.

(Cờ bạc)

Mỗi bức tranh là một tiếng cười nhẹ, châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc, bài thơ “Cờ bạc” giúp ta cảm và hiểu sâu sắc hơn, thú vị hơn bức chân dung “Trưởng ngục chơi ngày nào”.

Ở câu thơ thứ hai, tác giả như nhìn thấy cảnh sát trưởng trên đường:

“Thôn trưởng phạm tội tham tiền”.

Nam Trân dịch: “Thưởng người, trưởng kiếm ăn quanh”.

Bản gốc: Đội trưởng tham lam ăn tiền của tù nhân.

Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi chân dung biếm họa có một nét riêng. Giám đốc lo cờ bạc. Đồn trưởng ngang nhiên “móc túi” ăn tiền tù nhân. Chuyện quản giáo, trưởng công an ăn tiền tù nhân đã trở thành “thầy” mà nhà thơ không ít lần trở thành “nạn nhân”. “Vào tù phải trả phí – Lệ phí thông thường ít nhất là năm mươi tệ” (“Phí vào tù”), “Vào tù phải trả phí khoan đèn – Quảng Tây tiền đúng sáu tệ” (“Tiền mua đèn”).

Khía cạnh không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân” được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:

“Huyện trưởng đốt quan công”.

“Đốt đèn” nghĩa là đèn lồng, “công lý” nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã biến việc công thành việc công. Vào những năm 1960, nhiều bài viết về “Ngục trung nhật ký” đều cho rằng vị quận trưởng này ban đêm bật đèn hút thuốc phiện, qua đó nhấn mạnh giá trị tố cáo hiện thực xấu xa, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. . Sự thật không phải như vậy, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gạch bỏ ba chữ “hút thuốc phiện” bằng mực đỏ trong bức thư của một nhóm dịch giả xin ý kiến ​​của Người.

Trong xã hội cũ, quan lại coi mình là “cha mẹ” của dân, là “đèn trời soi chiếu”. Trong câu chữ Hán có chữ “dang” rất đặc biệt:

“Huyện trưởng đốt quan công”.

Chẳng phải ngọn đèn công lý đang tỏa sáng trên vầng trán của Quận trưởng, một người to lớn với khuôn mặt sáng sủa và chính trực hay sao? Ông có vẻ “chăm chỉ” lắm, lo việc quan cả ngày còn chưa đủ, đêm về còn chong đèn làm việc công? Nhưng không phải vậy, huyện trưởng Lai Tân là một người rất quan liêu! Chuyện ông Trưởng đánh bạc, chuyện ông Trưởng ăn trộm tiền của tù sao ông không biết, sao ông không biết? Hay ông Quận trưởng Lai Tân này là cái “dù” che cho đàn em “kiếm ăn”!. Ba bức tranh biếm họa song song, nối tiếp nhau, mang một ý nghĩa thẩm mỹ độc đáo, cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân như thế nào! Đó là bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây lúc bấy giờ!

Trước những “gương mặt” này, nhà thơ có thái độ như thế nào?

Cuối bài thơ, tác giả viết:

“Lai Tân y cựu Thái Bình Thiên”

(Lai Tân vẫn bình yên như xưa).

Đoạn thơ toát lên một nụ cười mỉa mai nhẹ nhàng mà thâm thúy. Nhà thơ như dửng dưng hỏi: Lai Tân với bộ máy quan lại như thế mà sao vẫn bình yên như xưa? Tính “hướng nội” của “Nhật ký trong tù” được thể hiện rất rõ ở đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật ký, vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho chính mình, để mà suy ngẫm, chiêm nghiệm, “Vừa nghĩ vừa đợi cho ngày tự do.” Vì vậy, bài thơ Lai Tân có ba chân dung Lý trưởng, Lý trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu. xa rời, thối nát của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ nhưng cũng chỉ nhằm châm biếm, châm biếm những nghịch lý, nghịch cảnh mà nhà thơ phải đương đầu, chịu đựng.

Đọc “Ngục trung nhật ký”, ta bắt gặp những “cán bộ” tốt bụng, đáng yêu. Nói như cục trưởng Long An họ Lưu, “Ai cũng nói anh đúng”. Với tư cách là tổ tiên họ Quách “đối xử tử tế với tôi”. Là người đứng đầu họ Mạc, “không dùng quyền, chỉ dùng ân”. Giảng viên họ Trần là “hiền”, chủ nhiệm họ Hậu là “khôn ngoan”… Góc nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, đáng trân trọng và công bằng. Giữa cái ác, anh vẫn tìm thấy cái thiện và tình yêu. người mà bạn kính trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này mà ta mới hiểu thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Lai Tân”: nụ cười rộng rãi, châm biếm. Sau 3 bức chân dung biếm họa là phần bình luận trào phúng thâm thúy và sâu sắc. Nụ cười mỉa mai trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một nhân cách văn hóa lớn: giàu trí tuệ và đạo đức tốt.

Trong bài “Tiếng nói hướng nội: Thế giới ngục tù và sự kiên quyết của tác giả – con người trữ tình”, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Huệ Chi viết:

“Đôi khi cái đối lập đã vượt ra ngoài khuôn khổ nhà tù, trở thành nét tiêu biểu cho toàn bộ xã hội Trung Quốc thời bấy giờ (chứ không riêng gì Trung Quốc và thực tế thời đó): cấp trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới mà thôi. lo kiếm tiền, bất chấp mọi tệ nạn hoành hành:

“Người đứng đầu nhà tù cờ bạc,

Trao giải cho Cảnh sát trưởng tìm kiếm xung quanh,

Ngọn đèn, đầu bàn,

Đất trời Lai Tân vẫn bình yên.”

(Lại Tân)

Ý nghĩa của tất cả những điều kỳ lạ trước mắt chúng ta là gì? Phải chăng đây không phải là sự “nhị nguyên” tiếp diễn trong nhận thức của nhà thơ: ngay cả khi đã “nhập thân” vào hiện thực như một tồn tại không thể chối cãi, nhà thơ vẫn tiếp tục lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả trong từng phương diện khác nhau của nó và trong các hình thức tồn tại khác nhau rõ ràng của nó, đôi khi cái xuất hiện là một nụ cười. Buồn…”.

Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:

lai-tan.jsp

Các bộ đề lớp 11 khác

Bạn thấy bài viết Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất – Ngữ văn lớp 11 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất – Ngữ văn lớp 11 bên dưới để Trường THPT Nguyễn Chí Thanh có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptnguyenchithanhag.edu.vn của Trường THPT Nguyễn Chí Thanh

Nhớ để nguồn bài viết này: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất – Ngữ văn lớp 11 của website thptnguyenchithanhag.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Xem thêm chi tiết về Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất - Ngữ văn lớp 11
Xem thêm bài viết hay:  Miêu tả hình ảnh người dũng sĩ hay nhất - Văn mẫu lớp 6

Viết một bình luận