Nhằm giúp các em học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức và nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 11, chúng tôi biên soạn bài Soạn Sơ đồ tư duy Tự tình 2 hay nhất, dễ nhớ với đầy đủ các nội dung. Các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích,…. Hi vọng thông qua Sơ đồ tư duy Tự Tình 2 sẽ giúp các em nắm được những nội dung cơ bản. của sự ích kỷ II.
Bài giảng: Tự ái – Cô Thúy Nhàn (giáo viên )
A. Sơ đồ tư duy Yêu bản thân 2
B. Hiểu Tự Ái II
I. Tác giả:
– Hồ Xuân Hương sinh năm mất chưa rõ.
– Cuộc đời Hồ Xuân Hương đầy gian khổ, nhiều thăng trầm.
– Tính cách cô phóng khoáng, tài giỏi, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo. II. Công việc
1. Thể loại: Thất ngôn bát cú đường luật.
2. Xuất xứ tác phẩm
– Tự Tình II nằm trong chùm thơ Tự Tình, gồm ba bài thơ của Hồ Xuân Hương. 3. Bố cục: 4 đoạn.
+ Hai câu kết: Giới thiệu hình ảnh người vợ lẽ.
+ Hai câu thực: Cách giải nỗi lòng của thiếp.
+ Hai bài: Khát vọng tìm hạnh phúc của người phụ nữ
+ Hai câu kết: Quy luật khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ 4. Giá trị nội dung:
– Tự tình II thể hiện tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương: vừa xót xa, vừa phẫn uất trước số phận cố gắng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch, đồng thời lời thơ cũng thể hiện niềm khát sống, khát khao sống. niềm hy vọng hạnh phúc của nữ thi sĩ.
5. Giá trị nghệ thuật
– Đoạn thơ khẳng định tài năng độc đáo của bà chúa thơ Nôm trong nghệ thuật dùng từ, xây dựng hình ảnh.
III. Lập dàn ý để phân tích tác phẩm
1. Hai câu kết: Giới thiệu về hình ảnh người vợ lẽ
– Đoạn thơ mở đầu bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá tiêu biểu:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Trần mặt hồng với nước non”
Thời gian: đêm khuya.
+ Không gian: trống trải, bao la, vang vọng tiếng trống canh giữ.
=> Câu đầu bài thơ gợi nỗi buồn man mác. Nỗi buồn gợi lên từ sự tĩnh lặng của đêm. Tiếng trống không gần (vang) nhưng vẫn nghe nhịp dồn dập, gấp gáp, đó là vì tiếng trống gợi sự trôi của thời gian, gợi sự tàn tạ và đó là tiếng trống được cảm nhận theo tâm trạng. Chính vì vậy trong nhịp trống dồn dập, liên hồi, ta dường như vừa nghe thấy bước chân hối hả của thời gian, vừa thấy được sự bối rối trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
– Câu thơ thứ hai gợi cảm giác bẽ bàng mãnh liệt hơn:
+ Sự đảo ngược dường như cố tình khoét sâu nỗi tủi nhục của tâm trạng. “Trơ” là xấu hổ, nhẫn tâm, vô cảm. Ngoài ra, hai từ “đỏ mặt” (chỉ khuôn mặt thiếu nữ) đi với từ “the” thật là rẻ rúng, mỉa mai. Cái “mặt đỏ” trơ với nước non không chỉ gợi dầu mỡ mà có lẽ còn gợi nhiều hơn trong đắng cay. Câu thơ chỉ gợi vẻ đẹp dung nhan mà gợi cả số phận của chủ thể trữ tình. Nhịp câu thơ 1/3/3 cũng vậy, mang tính phê phán, khoét sâu nỗi tủi nhục khôn tả.
+ Tuy nhiên, câu thơ không chỉ nói về nỗi đau mà nó còn thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Bản lĩnh ấy thể hiện ở chữ “trơ” như một lời thách thức. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự kiên trung, bất chấp. 2. Hai câu thực: Cách giải nỗi lòng của thiếp.
– Tác giả muốn mượn rượu để giải sầu quên đi nỗi buồn cô đơn, nhưng nỗi sầu của Xuân Hương quá lớn không loại rượu nào có thể làm giả được.
– Từ “lại” thể hiện sự luẩn quẩn giữa lúc tỉnh và lúc say trong tâm trạng xót xa, chua xót, bế tắc.
– Hình ảnh chân thực: trăng đã khuyết nhưng chưa tròn.
– Ẩn dụ: Tuổi xuân sắp qua, đời sắp tàn mà tình còn dang dở, hạnh phúc có bao giờ trọn vẹn.
– Nghệ thuật đối thoại tài tình làm nổi bật bi kịch thân phận người phụ nữ khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng không đạt được.
3. Hai bài: Khát vọng tìm hạnh phúc của người phụ nữ
– Nỗi uất hận tràn lên cảnh vật tạo cho chúng sức mạnh hủy diệt:
+ Rêu vốn nhỏ bé yếu ớt nay trở nên sắc nhọn, cứng ngắc “xẻng ngang mặt đất” để trồi lên.
+ Một vài viên đá trở nên sắc nhọn như gai như “đâm” thủng cả chân mây.
⇒ Rêu và đá như muốn vẽ trời đất mà phẫn uất, phản kháng, như cơn thịnh nộ của con người.
– Nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình khẳng định sự nổi loạn trong tâm trạng: sự phản kháng quyết liệt của nữ sĩ trước cuộc đời, số phận, xã hội đồng thời khẳng định sự tự tin của Hồ Xuân Hương.
4. Hai câu kết: Quy luật khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ
– Hai câu kết thúc là tâm trạng chán chường, buồn bã:
“Tôi mệt mỏi với mùa xuân và mùa xuân nữa,
Một mảnh tình san sẻ con nhỏ”.
+ “Bored” là chán, là chán. Xuân Hương mệt mỏi với những bon chen của cuộc đời và tủi hổ vì xuân đi xuân lại, thiên nhiên cứ quay vòng quay nhàm chán như chuyện tình của con người.
+ Từ “xuân” vừa dùng để chỉ mùa xuân, vừa dùng với nghĩa là tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại, nhưng với con người, xuân qua không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong câu “xuân đi xuân lại” cũng có hai nghĩa khác nhau. “again” đầu tiên có nghĩa là thêm lại, trong khi “again” thứ hai có nghĩa là quay lại. Xuân về mà xuân đi, đó là căn nguyên sâu xa của sự buồn chán.
+ Ở câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến càng làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình trở nên khó khăn hơn: mảnh tình – sẻ – bé – con. Một mảnh tình – vốn đã nhỏ, đã nhỏ, đã không trọn vẹn mà còn phải “sẻ chia” nên hầu như chẳng còn lại gì (bé con) nên càng đáng thương, đáng thương => Câu thơ thể hiện được cả tấm lòng của người phụ nữ. trong xã hội xưa, khi cảnh vợ chồng chung sống không còn xa lạ với họ.
IV. Bài viết phân tích.
Thơ là một loại hình nghệ thuật cao quý và tinh tế. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, của cảm xúc chân thành, mãnh liệt của người nghệ sĩ. Vì vậy, Diệp Tiên cho rằng “thơ là tiếng nói của trái tim”. Trong số những “tiếng lòng” trong thơ, ta thấy tiếng lòng của người phụ nữ sống trong xã hội cũ đầy tủi hờn, tủi hổ, tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với tác phẩm “Tự tình II”.
Thơ là người thư ký trung thành của trái tim, là nơi an nghỉ của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh đời sống con người, xã hội qua đó nhà thơ bày tỏ tình cảm của mình. Họ như những chú ong chăm chỉ bay xa mang về hương phấn làm nơi hút mật ngọt ngào, khéo léo sinh sản bằng những cảm xúc cá nhân để tạo nên mật ngọt cho đời.
Trong số những con ong chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo, chuyên viết về phụ nữ với thể loại trữ tình, trào phúng, kết hợp giữa văn học dân gian và bác học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là tiếng lòng của những người phụ nữ với nỗi đau, nỗi buồn về thân phận và khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ Tự tình II đã thể hiện rõ điều đó. Mở đầu bài thơ, ta như đồng cảm với tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya vang tiếng trống canh mặt hồng, nước non”.
Đoạn thơ mở ra một không gian vắng lặng, tĩnh lặng trong đêm thanh tĩnh. Trong không gian nghệ thuật ấy, cùng với bước đi vội vã của thời gian là “trống đánh trống dồn”, là “trơ” là “hồng nhan với nước non”. “Trọc” có nghĩa là ở trần gợi lên sự lẻ loi, cô đơn, nhưng cũng có nghĩa là trơ trẽn gợi lên sự xấu hổ, nhục nhã. “Trơ” là “mặt hồng” gợi sự mỉa mai, rẻ rúng và tủi hổ, tủi nhục, cô đơn của thân phận người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh. cũng thấm đẫm nỗi xót xa, tủi nhục, nỗi đau về số phận của nhân vật trữ tình:
“Chén hương đưa người say về tỉnh Trăng khuyết chưa tròn”.
Điệp ngữ “say cho tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng chính là vòng luẩn quẩn của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Mượn rượu làm men cay quên đời, quên tủi nhục nhưng men rượu đâu thể xua tan nỗi đau thân phận. Vì vậy, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống.
Ở đây, người phụ nữ đau đớn trước nhận thức “trăng khuyết chưa tròn”. Hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi đã thể hiện rõ nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình bởi tuổi xuân sắp qua như “bóng trăng khuyết” mà nhân duyên chưa trọn, nên “chưa tròn”. Dường như càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi bao nhiêu thì người phụ nữ ấy càng cảm thấy xót xa cho số phận của mình bấy nhiêu. Nỗi đau và sự đau buồn sẽ dẫn đến sự oán giận và phản kháng. Người phụ nữ chống lại số phận để đổi đời:
“Xiên ngang mặt đất, rêu mọc thành đám. Xuyên qua chân mây, đá mấy tảng đá.”
Phép đảo ngữ đặt các động từ mạnh “xiên”, “xỏ” ở đầu câu nhấn mạnh nỗi uất hận, phản kháng của người phụ nữ. “Rêu”, “đá” là những vật vô tri vô giác, nhỏ bé, mềm yếu là thân phận của người phụ nữ nhỏ bé, tầm thường, vô dụng trong xã hội “trọng nam khinh nữ” nhưng cũng mang sức mạnh phản kháng. , đấu tranh giành quyền sống, quyền sung sướng.
Quyền sống, quyền tự do yêu và quyền được hạnh phúc là những điều nhỏ nhoi mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng có được. Nhưng, hệ thống xã hội cũ đã không cho phép họ được sống với quyền thực sự của mình. Xã hội với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, với quan niệm muôn thuở “trời xanh, thói đỏng đảnh ghen tuông” đã ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời của người phụ nữ. Cố gượng dậy, họ lại càng chìm sâu hơn. Cố gắng chống lại chúng mang lại nhiều đau buồn hơn:
“Xuân xuân mỏi mệt. Tình yêu sẻ chia con nhỏ.”
Câu thơ thể hiện sự chán chường, chán chường khi tuổi trẻ của một người ra đi không bao giờ trở lại. “Mùa xuân” vừa là mùa xuân của đất trời, vừa là mùa xuân của con người. Cũng là “mùa xuân”, nhưng mùa xuân của đất trời thì đi rồi đến, nhưng mùa xuân của con người thì đi không trở lại. Vì thế, làm sao tránh khỏi buồn tủi hổ thẹn!
Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “chém cha đời lấy nhau” nhưng rồi ngậm ngùi trước cái lệ “tháo ra rồi lại buộc vào như chơi” (Nguyễn Du). Khát khao hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự ngậm ngùi của một số phận hai lần. “Một mảnh tình sẻ chia con nhỏ”.
Chỉ có một mình, chỉ một “mảnh tình” mà còn phải “sẻ chia” từng “đứa con bé bỏng”. Trái tim cô đơn mềm mại nhưng không trọn vẹn. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc đối với người phụ nữ giống như một tấm chăn quá chật, bên này ấm, bên lạnh.
Cả bài thơ Tự tình II thể hiện nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng như nỗi đau của mọi người phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là tâm trạng vừa xót xa, vừa phẫn uất trước số phận cố gắng vươn lên nhưng vẫn bị rơi vào bi kịch. Tất cả được khái quát thành những quy tắc như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
“Đau cho đàn bà Chữ xui cũng là chữ thường”.
“Tự tình II” giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau thân phận và khát vọng vươn lên mãnh liệt của người phụ nữ qua nỗi đau và khát vọng của Hồ Xuân Hương, nhưng cũng giúp chúng ta nhìn nhận và trân trọng tài năng độc đáo của bà. Nét độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” ở nghệ thuật dùng từ và xây dựng hình ảnh. Đúng là “Nghệ thuật làm thơ, tấm lòng làm thi nhân”.
“Tự tình II” là tiếng nói của trái tim Hồ Xuân Hương, như đã nói “Thơ là tiếng nói của trái tim” của Diệp Tiên. Âm thanh tha thiết vừa da diết vừa phảng phất ánh sáng của khát khao, ước mơ hạnh phúc như viên ngọc sáng bất chấp bước khắc nghiệt của thời gian. Trải qua nhiều thế kỷ, Hồ Xuân Hương và bài thơ Tự tình vẫn in sâu trong tâm trí hàng nghìn độc giả.
Xem thêm sơ đồ tư duy các tác phẩm, bài văn lớp 11 hay và chi tiết:
Các bộ đề lớp 11 khác
Bạn thấy bài viết Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất bên dưới để Trường THPT Nguyễn Chí Thanh có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptnguyenchithanhag.edu.vn của Trường THPT Nguyễn Chí Thanh
Nhớ để nguồn bài viết này: Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất của website thptnguyenchithanhag.edu.vn
Chuyên mục: Văn học
Tóp 10 Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Video Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
Hình Ảnh Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Tin tức Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Review Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Tham khảo Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Mới nhất Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất
Hướng dẫn Sơ đồ tư duy Tự tình 2 dễ nhớ, hay nhất
#Sơ #đồ #tư #duy #Tự #tình #dễ #nhớ #hay #nhất